phân tích đất nước đoạn 3
Tóm lại, qua đoạn trích “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định một chân lí: Đất nước này là Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm cho ý niệm về Đất nước của thơ ca chống Mỹ
Phân tích đất nước đoạn 3 chi tiết. Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm bao la, giàu tình yêu thương. Tác phẩm Đất nước là bài thơ được in trong tập trường ca Mặt đường khát vọng ở chương V. Được sáng tác vào năm 1971 ở chiến khu Trị Thiên, đây là thời kỳ kháng
Phân tích đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa ĐiềmGợi ý A. DÀN BÀI 1. Mở bài Trong thơ thời chống Mĩ, chủ đề đất - Chia sẻ bài viết Phân tích đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm mới nhất
1. Nguyễn Khoa Điềm vừa là nhà hoạt động chính trị vừa là nhà thơ thuộc thế hệ lớn lên và trưởng thành sau Cách mạng tháng Tám 1945. Ông sinh nãm 1943 tại thôn Ưu Điềm xã Phong Hoà huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên - Huế.
1 Đề bài: Lập dàn ý phân tích đoạn cuối bản Tuyên ngôn độc lập . 1.1 1. Bối cảnh lịch sử đất nước ta giai đoạn từ năm 1940 – 1945: 1.2 2. Lời khẳng định đanh thép về độc lập, chủ quyền, tự do dân tộc ; 1.3 3. Cơ sở pháp lý của bản Tuyên Ngôn độc lập
clozicetce1988. Bằng việc phân tích đất nước đoạn 3, có thể thay thế hệ trẻ chính là tương lai tươi sáng của Đất Nước. Những thế hệ tương lai được kỳ vọng, gánh trên vai trọng trách phát triển đất nước. Với trí tuệ và tầm vóc của người trẻ, Đất nước chắc chắn sẽ có những triển vọng tươi sáng. Đó cũng chính trách nhiệm chung của bất cứ một người con đất Việt nào trong sự nghiệp xây dựng Đất Nước. Bạn đang xem Đất nước phân tích đoạn 3Nguyễn Khoa Điềm là nhờ văn, nhà thơ có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Nổi bật nhất trong số các tác phẩm của nhà thơ phải kể đến là Đất Nước. Phân tích đất nước đoạn 3 để thấy được ngòi bút sắc bén và thắm đượm trữ tình của Nguyễn Khoa tích đất nước đoạn 3 chi tiếtBạn đang xem Phân tích đoạn 3 đất nướcĐất Nước của Nguyễn Khoa Điềm bao la, giàu tình yêu thươngTác phẩm Đất nước là bài thơ được in trong tập trường ca Mặt đường khát vọng ở chương V. Được sáng tác vào năm 1971 ở chiến khu Trị Thiên, đây là thời kỳ kháng chiến vô cùng sôi sục của quân và dân ta. Bài thơ là lời gửi gắm, thức tỉnh sâu sắc cho thế hệ trẻ miền Nam nói chúng và thế hệ trẻ sau này về sứ mệnh của bản thân đối với đất nước. Phân tích đất nước đoạn 3 để có thêm những hiểu biết, nhìn nhận đúng đắn về trách nhiệm, vai trò của nhân dân trong việc xây dựng đất nước“Trong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất Nước……Làm nên Đất Nước muôn đời”Trong khi ở hai khổ đầu, nhà thơ nói đến những tình cảm thân thương, gắn kết của nhân dân, những truyền thống trong gia đình. Qua đó, ta hiểu được cội nguồn của đất nước, biết được Ai làm nên đất nước, Đất nước là gì. Thì ở đoạn 3 của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn những trách nhiệm mà mỗi người phải có đối với Đất Nước. Hình ảnh của Đất nước hiện lên vừa thân thuộc lại vô cùng gần gũi. Vẻ đẹp của con người là do Đất nước kết tinh, hội tụ mà thành. Nhà thơ khẳng định trong mỗi người dân đều có một phần của Đất nước “Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước”. Từ đó, người đọc sẽ hiểu rõ hơn, thấm thía hơn về sự gắn bó khăng khít của mỗi người đối với đất nước rộng lớn bao la. Sự gắn kết đó thể hiện trong từng nếp sống sinh hoạt, từng hoạt động, cử chỉ vừa thân quen vừa ngập tràn tình yêu thương“Khi hai đứa cầm tayĐất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm”.Ý niệm của đã được Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến trong những trong những câu thơ đầu tiên “Đất Nước là nơi ta hò hẹn” ở bài này và được tiếp nối qua đoạn thứ 3. Phân tích đất nước đoạn 3 để thấy tình yêu Đất nước là cơ sở của tình yêu đôi lứa hay nói cách khác tình yêu đôi lứa được hình thành và phát triển từ tình yêu nước. Một tình yêu hài hòa và lớn lao. Từ đó, mọi người phải có trách nhiệm xây dựng tổ ấm của mình để góp phần vào xây dựng đất nước phồn thịnh. Mỗi chúng ta phải có trách nhiệm gắn bó, kết nối cộng đồng. Cuối cùng mục đích duy nhất là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Từ “Đất nước hài hòa nồng thắm” trong mỗi người, gắn kết với nhau thành “đất nước vẹn tròn to lớn”. Tình yêu thương chính là chìa khóa để làm nên đất nướcHình ảnh “Khi hai đứa cầm tay” còn là để nhắc nhở chúng ta về cội nguồn, nguồn gốc tổ tiên của chúng ta. Tất cả chúng ta đều chung một gốc gác – Con Rồng Cháu Tiên. Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn nhủ chúng ta phải nhớ đến cội nguồn , truyền nối tình yêu và hy vọng cho các thế hệ sau“Mai này con ta lớn lênCon sẽ mang đất nước đi xaĐến những tháng ngày mơ mộng”Bằng việc phân tích đất nước đoạn 3, có thể thay thế hệ trẻ chính là tương lai tươi sáng của Đất Nước. Những thế hệ tương lai được kỳ vọng, gánh trên vai trọng trách phát triển đất nước. Với trí tuệ và tầm vóc của người trẻ, Đất nước chắc chắn sẽ có những triển vọng tươi sáng. Đó cũng chính trách nhiệm chung của bất cứ một người con đất Việt nào trong sự nghiệp xây dựng Đất Nước. “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời…”Lời tâm tình của của người anh dành cho em, lời của chàng trai dành cho cô gái qua đoạn thơ vừa tình cảm lại thân thương gần gũi. Đất Nước bao la rộng lớn nhưng khi được đặt ngang với “máu xương của mình” thì hiện hữu một cách chân thực như nhắc nhỡ chúng ta. Ông cha ra đã lấy máu xương của mình, hy sinh, cố gắng suốt mấy nghìn năm để đổi lại sự bình yên, tự do cho Đất Nước. Đất nước là một phần của con người. Xem thêm Grigori Perelman Biography, Grigori Yakovlevich Perelman 1966Thế hệ trẻ phải có trách nhiệm kế thừa và xây dựng đất nước phồn thịnhTác giả lặp lại 2 từ “phải biết” như một lời dặn dò mà mỗi chúng ta phải khắc cốt ghi tâm “biết gắn bó san sẻ”, “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”. Mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm xây dựng Đất Nước, yêu dân tộc và yêu nước. Với phép so sánh bằng những hình ảnh giản dị, ta hiểu được trách nhiệm của nhân dân đối với Đất Nước. Mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ phải luôn nỗ lực, phấn đấu để xây dựng, giữ gìn và đưa đất nước đi lên ngày một vững mệnh. Kết bài
Nguyễn Khoa Điềm là nhờ văn, nhà thơ có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Nổi bật nhất trong số các tác phẩm của nhà thơ phải kể đến là Đất Nước. Phân tích đất nước đoạn 3 để thấy được ngòi bút sắc bén và thắm đượm trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm. Phân tích đất nước đoạn 3 chi tiết Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm bao la, giàu tình yêu thươngTác phẩm Đất nước là bài thơ được in trong tập trường ca Mặt đường khát vọng ở chương V. Được sáng tác vào năm 1971 ở chiến khu Trị Thiên, đây là thời kỳ kháng chiến vô cùng sôi sục của quân và dân ta. Bài thơ là lời gửi gắm, thức tỉnh sâu sắc cho thế hệ trẻ miền Nam nói chúng và thế hệ trẻ sau này về sứ mệnh của bản thân đối với đất tích đất nước đoạn 3để có thêm những hiểu biết, nhìn nhận đúng đắn về trách nhiệm, vai trò của nhân dân trong việc xây dựng đất nước“Trong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất Nước……Làm nên Đất Nước muôn đời”Trong khi ở hai khổ đầu, nhà thơ nói đến những tình cảm thân thương, gắn kết của nhân dân, những truyền thống trong gia đình. Qua đó, ta hiểu được cội nguồn của đất nước, biết được Ai làm nên đất nước, Đất nước là gì. Thì ở đoạn 3 của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn những trách nhiệm mà mỗi người phải có đối với Đất Nước. Hình ảnh của Đất nước hiện lên vừa thân thuộc lại vô cùng gần gũi. Vẻ đẹp của con người là do Đất nước kết tinh, hội tụ mà thành. Nhà thơ khẳng định trong mỗi người dân đều có một phần của Đất nước “Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước”. Từ đó, người đọc sẽ hiểu rõ hơn, thấm thía hơn về sự gắn bó khăng khít của mỗi người đối với đất nước rộng lớn bao la. Sự gắn kết đó thể hiện trong từng nếp sống sinh hoạt, từng hoạt động, cử chỉ vừa thân quen vừa ngập tràn tình yêu thương“Khi hai đứa cầm tayĐất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm”.Ý niệm của đã được Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến trong những trong những câu thơ đầu tiên “Đất Nước là nơi ta hò hẹn” ở bài này và được tiếp nối qua đoạn thứ tích đất nước đoạn 3để thấy tình yêu Đất nước là cơ sở của tình yêu đôi lứa hay nói cách khác tình yêu đôi lứa được hình thành và phát triển từ tình yêu nước. Một tình yêu hài hòa và lớn lao. Từ đó, mọi người phải có trách nhiệm xây dựng tổ ấm của mình để góp phần vào xây dựng đất nước phồn thịnh. Mỗi chúng ta phải có trách nhiệm gắn bó, kết nối cộng đồng. Cuối cùng mục đích duy nhất là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Từ “Đất nước hài hòa nồng thắm” trong mỗi người, gắn kết với nhau thành “đất nước vẹn tròn to lớn”. Tình yêu thương chính là chìa khóa để làm nên đất nướcHình ảnh “Khi hai đứa cầm tay” còn là để nhắc nhở chúng ta về cội nguồn, nguồn gốc tổ tiên của chúng ta. Tất cả chúng ta đều chung một gốc gác – Con Rồng Cháu Tiên. Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn nhủ chúng ta phải nhớ đến cội nguồn , truyền nối tình yêu và hy vọng cho các thế hệ sau“Mai này con ta lớn lênCon sẽ mang đất nước đi xaĐến những tháng ngày mơ mộng”Bằng việcphân tích đất nước đoạn 3, có thể thay thế hệ trẻ chính là tương lai tươi sáng của Đất Nước. Những thế hệ tương lai được kỳ vọng, gánh trên vai trọng trách phát triển đất nước. Với trí tuệ và tầm vóc của người trẻ, Đất nước chắc chắn sẽ có những triển vọng tươi sáng. Đó cũng chính trách nhiệm chung của bất cứ một người con đất Việt nào trong sự nghiệp xây dựng Đất Nước. “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời…”Lời tâm tình của của người anh dành cho em, lời của chàng trai dành cho cô gái qua đoạn thơ vừa tình cảm lại thân thương gần gũi. Đất Nước bao la rộng lớn nhưng khi được đặt ngang với “máu xương của mình” thì hiện hữu một cách chân thực như nhắc nhỡ chúng ta. Ông cha ra đã lấy máu xương của mình, hy sinh, cố gắng suốt mấy nghìn năm để đổi lại sự bình yên, tự do cho Đất Nước. Đất nước là một phần của con người. Thế hệ trẻ phải có trách nhiệm kế thừa và xây dựng đất nước phồn thịnhTác giả lặp lại 2 từ “phải biết” như một lời dặn dò mà mỗi chúng ta phải khắc cốt ghi tâm “biết gắn bó san sẻ”, “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”. Mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm xây dựng Đất Nước, yêu dân tộc và yêu nước. Với phép so sánh bằng những hình ảnh giản dị, ta hiểu được trách nhiệm của nhân dân đối với Đất Nước. Mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ phải luôn nỗ lực, phấn đấu để xây dựng, giữ gìn và đưa đất nước đi lên ngày một vững mệnh. Kết bài Quaphân tích đất nước đoạn 3ta hiểu được rằng những người con đất Việt với tình yêu dân tộc nồng nàn chính là yếu tố làm nên Đất Nước. Trong mỗi chúng ta, Đất nước chính là lòng yêu thương và cũng là sứ mệnh phải thực hiện từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mỗi người đều cần làm tròn trách nhiệm này thông qua những tình cảm nhỏ bé giữa con người với con người. Con người yêu thương nhau và yêu Đất Nước.
Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Hình Ảnh về Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Video về Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Wiki về Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất – Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 Non sông được tạo nên bởi tâm hồn, bởi tâm hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm cả tình yêu và máu thịt của mình vào đó. Khổ thơ thứ ba là những lí lẽ gang thép nhưng cũng ko kém phần trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, qua đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Non sông do người nào làm ra? “Vợ nhớ chồng cũng góp núi Vọng Phu cho quốc gia. Những đôi trai gái yêu nhau góp mặt ở hòn Trống Mái. Vó ngựa Thánh Gióng đi qua, nhưng trăm ao đầm vẫn còn Chín mươi chín con voi góp phần xây dựng đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im trong dòng sông xanh thẳm Chàng thư sinh nghèo giúp nước núi Bút, núi Nghiên. Con cóc và con gà cùng góp phần đưa Hạ Long trở thành thắng cảnh Những người góp công mang tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở khắp mọi nơi trên những cánh đồng và những ngọn đồi Ko có một hình hài, một ước muốn, một cách sống của người cha ”. Điểm qua, có thể thấy ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày một cái nhìn rất mới và lạ mắt của thi sĩ. Xưa nay, viết về những danh lam thắng cảnh đẹp, hoang vu của dân tộc, là mảnh đất, là đề tài nhưng mà bao người cày cuốc, bao bước chân khát khao khám phá. Nhưng ở họ, người đọc chỉ thấy được vẻ đẹp rộng lớn, trẻ trung của tấm gấm nhưng mà chưa thấy được cái hồn sâu lắng đằng sau từng mảnh đất, cảnh vật. Tuy nhiên, tới với Nguyễn Khoa Điềm, thi sĩ ko nhìn danh lam thắng cảnh ở tâm hồn bên ngoài nhưng mà nhìn sâu vào tận xương tủy tâm hồn để thấy được những huyền thoại, những trầm tích văn hoá, lịch sử khắc sâu trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng. , thấm nhuần ý thức thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn liền với phong tục, văn hóa hay với những câu chuyện về con người và lịch sử được lưu giữ từ nghìn đời nay. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Non sông do người nào làm ra, thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm ko chỉ trình bày một dung mạo mới nhưng mà còn trình bày một cách cảm nhận mới. Thế núi hình sông ko phải là tạo hóa của tự nhiên nhưng mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời của mỗi tư nhân, mỗi thân phận đã hóa thân để tạo nên hình hài, khát vọng về lối sống của người cha. Sự tích về hòn Vọng Phu ko chỉ gợi lên cảnh chia ly, hy vọng dài dằng dặc trong chiến tranh nhưng mà còn truyền tụng tình yêu chung tình của những người vợ nhớ chồng. Cách đặt tên Hòn Trống, Hòn Mái của dân gian qua con mắt của thi sĩ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của sự sinh sôi, nảy nở cho tình yêu lứa đôi vĩnh cửu. Những ngọn đồi thấp xung quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các Vua Hùng, qua con mắt của nhân dân, đã trở thành chứng tích của 99 con voi được quy tụ về thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng lòng hướng về quốc gia. thống nhât. Núi Bút, Non Nghiên là hình ảnh quốc gia nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, là hình ảnh quốc gia với gươm giáo trên lưng, bàn tay mềm mại cầm bút hoa. Tương tự, nhìn một cách tổng thể, chúng ta có thể nhận thấy rằng, nếu tự nhiên tạo nên núi sông có hình thù thì chính con người, con người mới tạo nên vong linh cho mỗi ngọn núi, con sông. Xuất phát từ quan niệm Phật nhập thế, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh rằng nhân dân đã hóa thân vào quốc gia. Bài thơ mở đầu bằng những truyền thuyết trong dân gian, nhưng bay bổng trên toàn cầu đấy nhờ cái nhìn mới mẻ lạ mắt của lối tư duy hiện đại. Núi sông ko còn là cảnh sắc tự nhiên tinh khiết, những câu chuyện văn hóa, lịch sử ko thuần tuý thiêng liêng nhưng mà tất cả dưới con mắt của Nguyễn Khoa Điềm đều được xem như một phần tâm hồn. Máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng, cảm động về sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm nên quốc gia. “Ôi Non sông, sau bốn nghìn năm, tôi có thể nhìn thấy nó ở mọi nơi tôi tới Những cuộc đời đã biến núi sông của chúng ta… ” Cái tài hoa và sự tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời kì lịch sử, vừa ko gian rộng lớn. Hình như từ đó thi sĩ muốn khẳng định rằng, lặng lẽ trường tồn với thời kì, trung kiên trung thành với ko gian chính là lẽ sống của nhân dân. Bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lên về sự đóng góp to lớn và nhập thế nhưng mà nhân dân đã góp phần tạo nên văn hóa, lịch sử, là hồn cốt của dân tộc. Từ đó giúp gắn kết tâm hồn con người từ bao đời nay. Những bài viết liên quan Đăng bởi Trường Trường TH Trảng Dài Phân mục Văn lớp 12, Ngữ văn 12 [rule_{ruleNumber}] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_3_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 Đất Nước được tạo nên bởi vong linh, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén nhưng mà cũng thắm thiết trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên?“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo tạo điều kiện cho Đất Nước mình núi Bút, non cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông cha” Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày cái nhìn rất mới mẻ, lạ mắt của thi sĩ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của quốc gia dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khát khao khám phá tìm kiếm. Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp mênh mông, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng. Song, tới Nguyễn Khoa Điềm thì thi sĩ ko nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài nhưng mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích, trầm tích văn hóa lịch sử khắc tạc ở trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm ý thức thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn với những phong tục tập quán, văn hóa, hay với những câu chuyện về con người, về lịch sử đã được lưu giữ qua hàng nghìn thế hệ. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên, thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm ko chỉ trình bày cái nhìn mới mẻ nhưng mà còn trình bày cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông ko phải là sự tạo tác của tự nhiên nhưng mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi tư nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ước ao một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu ko chỉ gợi ra cảnh ly tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh nhưng mà còn truyền tụng tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của thi sĩ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực, cho sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu lứa đôi. Những quả đồi thấp xung quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về quốc gia thống nhất. Núi Bút, non Nghiên là hình ảnh Non sông nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. Tương tự, lúc nói chung lại ta có thể trông thấy, nếu tự nhiên kiến tạo nên thế núi hình sông, thì nhân dân, chính nhân dân mới là người kiến tạo vong linh cho mỗi ngọn núi con sông. Xuất phát từ quan niệm hóa thân của nhà Phật, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã hóa thân vào quốc gia. Đoạn thơ từ khi những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền toàn cầu đấy nhờ cái nhìn mới mẻ lạ mắt của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông ko còn là cảnh sắc tự nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử ko chỉ thuần tuý mang tính chất thiêng liêng, nhưng mà tất cả dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng xúc động cho sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm ra Đất Nước.“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời kì lịch sử, vừa gợi được ko gian mênh mông. Hình như để từ đó thi sĩ muốn khẳng định, lặng lẽ dai sức cùng thời kì, trung hậu kiên cường trong ko gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân. Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn nhưng mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế bài viết liên quanĐăng bởi Trường TH Trảng DàiPhân mục Lớp 12, Ngữ Văn 12 Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_2_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_2_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_3_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 Đất Nước được tạo nên bởi vong linh, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén nhưng mà cũng thắm thiết trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên?“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo tạo điều kiện cho Đất Nước mình núi Bút, non cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông cha” Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày cái nhìn rất mới mẻ, lạ mắt của thi sĩ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của quốc gia dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khát khao khám phá tìm kiếm. Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp mênh mông, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng. Song, tới Nguyễn Khoa Điềm thì thi sĩ ko nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài nhưng mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích, trầm tích văn hóa lịch sử khắc tạc ở trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm ý thức thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn với những phong tục tập quán, văn hóa, hay với những câu chuyện về con người, về lịch sử đã được lưu giữ qua hàng nghìn thế hệ. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên, thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm ko chỉ trình bày cái nhìn mới mẻ nhưng mà còn trình bày cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông ko phải là sự tạo tác của tự nhiên nhưng mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi tư nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ước ao một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu ko chỉ gợi ra cảnh ly tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh nhưng mà còn truyền tụng tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của thi sĩ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực, cho sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu lứa đôi. Những quả đồi thấp xung quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về quốc gia thống nhất. Núi Bút, non Nghiên là hình ảnh Non sông nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. Tương tự, lúc nói chung lại ta có thể trông thấy, nếu tự nhiên kiến tạo nên thế núi hình sông, thì nhân dân, chính nhân dân mới là người kiến tạo vong linh cho mỗi ngọn núi con sông. Xuất phát từ quan niệm hóa thân của nhà Phật, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã hóa thân vào quốc gia. Đoạn thơ từ khi những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền toàn cầu đấy nhờ cái nhìn mới mẻ lạ mắt của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông ko còn là cảnh sắc tự nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử ko chỉ thuần tuý mang tính chất thiêng liêng, nhưng mà tất cả dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng xúc động cho sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm ra Đất Nước.“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời kì lịch sử, vừa gợi được ko gian mênh mông. Hình như để từ đó thi sĩ muốn khẳng định, lặng lẽ dai sức cùng thời kì, trung hậu kiên cường trong ko gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân. Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn nhưng mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế bài viết liên quanĐăng bởi Trường TH Trảng DàiPhân mục Lớp 12, Ngữ Văn 12 Bạn thấy bài viết Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3hay nhất có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3hay nhất bên dưới để Trường TH Trảng Dài Nghĩacó thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website của Trường TH Trảng Dài Nhớ để nguồn Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3hay nhất
Bài làm Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Trong ông, cũng như bao thế hệ con người Việt Nam luôn trào lên một tình yêu đất nước cao cả. Tình yêu ấy được thể hiện sâu sắc qua bài thơ “Đất nước” và đặc biệt là đoạn 3 với những nét đẹp trong truyền thống anh dũng, kiên cường. Xuyên suốt bài thơ là những tình cảm dạt dào và sâu sắc. Đất nước là hình ảnh thân thuộc trong những điều nhỏ nhặt của cuộc sống, là những phong tục tập quán lâu đời được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đất nước còn là sự kiên cường, bất khuất và lòng dũng cảm của nhân dân trong thời kì kháng chiến gian khổ và đầy hiểm nguy. Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm đất nước Câu thơ như tiếng gọi ân cần của người con trai dành cho người mình yêu thương. Nhà thơ gợi lại cho chúng ta về bốn nghìn năm đô hộ mà có lẽ cả dân tộc không thể nào quên. Đó là sự nhắc nhở chúng ta nhớ về quá khứ, về một thời kì mà cả dân tộc đã cùng nhau vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ vì sự độc lập, tự do đáng quý. Phân tích đoạn 3 bài thơ Đất Nước Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con trai, con gái bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Câu thơ nhắc đến truyền thống và nét đẹp trong tâm hồn người Việt. Đời nào cũng thế, dù là ai, trai hay gái, già hay trẻ thì họ cũng đều mang trong mình sự cần cù, chịu thương, chịu khó. Nhân dân Việt Nam, với nền văn hóa lúa nước, quanh năm ngày tháng quần quật bên ruộng đồng, đổ những giọt mồ hôi mặn chát để đem lại những hạt gạo trắng ngần, dẻo thơm. Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Những ngày đất nước còn yên bình, cả trai cả gái đều cùng nhau làm lụng vất vả. Họ cùng nhau rãi nắng dầm mưa để đem lại cuộc sống ấm no, đủ đầy. Khi giặc đến, nhiệm vụ giải phóng đất nước được đặt lên hàng đầu. Thanh niên trai tráng xông pha vào trận mạng. Họ không ngại hy sinh, đem cả thân mình để bảo vệ đất nước. Những chàng trai ấy quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Lúc này, tình yêu đất nước vượt lên trên tất cả. Họ gạt tình cảm gia đình, tình yêu nam nữ sang môt bên để toàn tâm, toàn lực phục vụ đất nước. Người đàn ông đi vào chiến trường, người phụ nữ trở về gia đình chăm sóc và nuôi dạy con cái. Họ trở thành hậu phương vững chắc để các anh yên tâm mà đánh giặc. Vậy mà, khi giặc lùng vào xóm làng, cả dân tộc như vùng lên mạnh mẽ. Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ Câu nói nổi tiếng của Bác Hồ được nhà thơ khéo léo đưa vào trong sáng tác của mình. Những khi giặc đến, tinh thần yêu nước lại sục sôi như làn sóng vô cùng mạnh mẽ. Những người đàn bà dịu dàng, cần mẫn ngày nào giờ đây lại mang trong mình sức mạnh phi thường. Họ không sợ hãi, không chạy trốn mà anh dũng đứng lên để trở chống lại sự tàn ác của quân thù. Có biết bao nữ anh hùng vẫn được nhắc tên suốt chiều dài lịch sử như Võ Thị Sáu, Hai Bà Trưng…. Họ mãi songs trong lòng nhân dân với bao sự biết ơn và niềm tự hào cao cả. Và trong quá trình tìm lại tự do cho Tổ quốc, đã có biết bao người ngã xuống. Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Những họ đã làm nên đất nước Chiến tranh đã mang đến những gian nan, vất vả và cả sự hy sinh đầy thương xót. Tinh thần yêu nước dù lớn mạnh đến đâu cũng không tránh khỏi những mất mát và đổ máu. Có biết bao người con trai, con gái đã hy sinh thân mình vì trách nhiệm đối với Tổ quốc, đối với nhân dân. Họ là những người không tên, không tuổi. Họ chỉ muốn dùng sức lực của mình để giải phóng đất nước chứ chưa một lần mong muốn rằng sự hy sinh của họ phải được ai nhớ đến và khắc ghi. Thế nhưng, những cái chết, những sự hy sinh thầm lặng ấy lại luôn được giữ gìn và ghi nhớ đến muôn đời sau. Chính những chàng trai, cô gái tràn đầy nhiệt huyết ấy đã dùng thân mình để làm nên đất nước. Để rồi, đất nước Việt Nam luôn được bạn bè quốc tế biết đến với những nét đẹp đáng tự hào. Họ đã làm nên những chiến thắng xẻ vang, để từ một nước nhỏ bé có thể đánh bại được bọn thực dân,, phát xít bạo tàn. Đất nước đã, đang và sẽ lớn mạnh hơn nhờ tinh thần yêu nước và ý chí quật cường của bao thế hệ người Việt. Tinh thần ấy sẽ luôn là niềm tự hào của những thế hệ mai sau, là sức mạnh và động lực cho lớp trẻ noi theo để cùng nhau xây dựng đất nước. Các anh, các chị đã giành lại tự do cho Tổ quốc và nhiệm vụ của thế hệ sau là giữ gìn nền độc lập ấy và đưa đất nước phát triển mạnh mẽ hơn nữa, xứng đáng với công lao và sự hy sinh cao cả của cha anh. Seen
Top 5 bài phân tích Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Dàn ý phân tích Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa ĐiềmI. Mở bàiII. Thân bàiIII. Kết bàiTop 5 bài phân tích bài Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa ĐiềmSố 1 Phân tích Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa ĐiềmSố 2 Phân tích đoạn 3 Đất Nước Nguyễn Khoa ĐiềmSố 3 Phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa ĐiềmSố 4 Đất Nước phân tích Đoạn 3 Nguyễn Khoa ĐiềmSố 5 Phân tích bài Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa ĐiềmTổng kết Tổng hợp các bài mẫu phân tích Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa Điềm một cách đầy đủ và chi tiết nhất sẽ giúp các bạn học sinh chuẩn bị kiến thức thật tốt cho mình trước các kì thi sắp tới. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 5 bài phân tích bài Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé! I. Mở bài – Đây là một bài thơ hay của Nguyễn Đình Thi và của thơ ca kháng chiến chống thực dân Pháp. – Đoạn thơ mở đầu bài thơ Đất nước đánh giá là hay nhất bài thơ vì biểu lộ cảm xúc trực tiếp về một mùa thu mới đang tới trên quê hương. II. Thân bài – Đoạn thơ nguyên là những mảng của hai bài thơ khác nhau nối lại với sự điều chỉnh và sửa chữa chút ít. – Mở đầu, nhà thơ gợi lại hình ảnh của một “mùa thu đã xa” với không khí “xao xác” và hình ảnh “người ra đi” lặng lẽ. Nỗi xao xác bâng khuâng là âm điệu chính của câu đầu này. – Tiếp theo, tác giả bộc lộ niềm vui giao hòa giữa lòng người và vật khi chứng kiến “mùa thu nay” đầy âm điệu háo hức – mùa thu của đất trời giải phóng. Hai chữ “vui nghe” không chỉ diễn tả một trạng thái tình cảm nhất thời mà còn nói rõ cách nghe hay là một cách nhận thức mới của nhà thơ về cuôc đời. – Từ niềm vui nói trên, đoạn thơ chuyển ý rất tự nhiên nhấn mạnh ý thức sở hữu của cái ta cộng đồng với non nước mình, mặt khác, bộc lộ cảm xúc tự hào và sung sướng của nhà thơ trước vẻ đẹp đắm say của Tổ quốc. – Phần cuối của đoạn thơ dẫn người đọc vào mạch suy tư về truyền thống anh hùng của đất nước, ở đây xuất hiện một định nghĩa rất thơ và cũng rất Nguyễn Đình Thi về Tổ quốc Việt Nam. III. Kết bài Trong bài thơ, cảm hứng thời đại đã hòa quyện với cảm hứng lịch sử trong một niềm xúc động thơ đẹp đẽ Xem thêm Top 20 bài phân tích bài Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 10 dàn ý bài Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 10 sơ đồ tư duy bài Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 10 mẫu soạn văn bài Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 40 mẫu mở bài bài thơ Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 40 mẫu kết bài bài Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 5 bài phân tích bài Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa Điềm Số 1 Phân tích Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Trong ông, cũng như bao thế hệ con người Việt Nam luôn trào lên một tình yêu đất nước cao cả. Tình yêu ấy được thể hiện sâu sắc qua bài thơ “Đất nước” và đặc biệt là đoạn 3 với những nét đẹp trong truyền thống anh dũng, kiên cường. Xuyên suốt bài thơ là những tình cảm dạt dào và sâu sắc. Đất nước là hình ảnh thân thuộc trong những điều nhỏ nhặt của cuộc sống, là những phong tục tập quán lâu đời được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đất nước còn là sự kiên cường, bất khuất và lòng dũng cảm của nhân dân trong thời kì kháng chiến gian khổ và đầy hiểm nguy. Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm đất nước Câu thơ như tiếng gọi ân cần của người con trai dành cho người mình yêu thương. Nhà thơ gợi lại cho chúng ta về bốn nghìn năm đô hộ mà có lẽ cả dân tộc không thể nào quên. Đó là sự nhắc nhở chúng ta nhớ về quá khứ, về một thời kì mà cả dân tộc đã cùng nhau vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ vì sự độc lập, tự do đáng quý. Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con trai, con gái bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Câu thơ nhắc đến truyền thống và nét đẹp trong tâm hồn người Việt. Đời nào cũng thế, dù là ai, trai hay gái, già hay trẻ thì họ cũng đều mang trong mình sự cần cù, chịu thương, chịu khó. Nhân dân Việt Nam, với nền văn hóa lúa nước, quanh năm ngày tháng quần quật bên ruộng đồng, đổ những giọt mồ hôi mặn chát để đem lại những hạt gạo trắng ngần, dẻo thơm. Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Những ngày đất nước còn yên bình, cả trai cả gái đều cùng nhau làm lụng vất vả. Họ cùng nhau rãi nắng dầm mưa để đem lại cuộc sống ấm no, đủ đầy. Khi giặc đến, nhiệm vụ giải phóng đất nước được đặt lên hàng đầu. Thanh niên trai tráng xông pha vào trận mạng. Họ không ngại hy sinh, đem cả thân mình để bảo vệ đất nước. Những chàng trai ấy quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Lúc này, tình yêu đất nước vượt lên trên tất cả. Họ gạt tình cảm gia đình, tình yêu nam nữ sang môt bên để toàn tâm, toàn lực phục vụ đất nước. Người đàn ông đi vào chiến trường, người phụ nữ trở về gia đình chăm sóc và nuôi dạy con cái. Họ trở thành hậu phương vững chắc để các anh yên tâm mà đánh giặc. Vậy mà, khi giặc lùng vào xóm làng, cả dân tộc như vùng lên mạnh mẽ. Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ Câu nói nổi tiếng của Bác Hồ được nhà thơ khéo léo đưa vào trong sáng tác của mình. Những khi giặc đến, tinh thần yêu nước lại sục sôi như làn sóng vô cùng mạnh mẽ. Những người đàn bà dịu dàng, cần mẫn ngày nào giờ đây lại mang trong mình sức mạnh phi thường. Họ không sợ hãi, không chạy trốn mà anh dũng đứng lên để trở chống lại sự tàn ác của quân thù. Có biết bao nữ anh hùng vẫn được nhắc tên suốt chiều dài lịch sử như Võ Thị Sáu, Hai Bà Trưng…. Họ mãi songs trong lòng nhân dân với bao sự biết ơn và niềm tự hào cao cả. Và trong quá trình tìm lại tự do cho Tổ quốc, đã có biết bao người ngã xuống. Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Những họ đã làm nên đất nước Chiến tranh đã mang đến những gian nan, vất vả và cả sự hy sinh đầy thương xót. Tinh thần yêu nước dù lớn mạnh đến đâu cũng không tránh khỏi những mất mát và đổ máu. Có biết bao người con trai, con gái đã hy sinh thân mình vì trách nhiệm đối với Tổ quốc, đối với nhân dân. Họ là những người không tên, không tuổi. Họ chỉ muốn dùng sức lực của mình để giải phóng đất nước chứ chưa một lần mong muốn rằng sự hy sinh của họ phải được ai nhớ đến và khắc ghi. Thế nhưng, những cái chết, những sự hy sinh thầm lặng ấy lại luôn được giữ gìn và ghi nhớ đến muôn đời sau. Chính những chàng trai, cô gái tràn đầy nhiệt huyết ấy đã dùng thân mình để làm nên đất nước. Để rồi, đất nước Việt Nam luôn được bạn bè quốc tế biết đến với những nét đẹp đáng tự hào. Họ đã làm nên những chiến thắng xẻ vang, để từ một nước nhỏ bé có thể đánh bại được bọn thực dân,, phát xít bạo tàn. Đất nước đã, đang và sẽ lớn mạnh hơn nhờ tinh thần yêu nước và ý chí quật cường của bao thế hệ người Việt. Tinh thần ấy sẽ luôn là niềm tự hào của những thế hệ mai sau, là sức mạnh và động lực cho lớp trẻ noi theo để cùng nhau xây dựng đất nước. Các anh, các chị đã giành lại tự do cho Tổ quốc và nhiệm vụ của thế hệ sau là giữ gìn nền độc lập ấy và đưa đất nước phát triển mạnh mẽ hơn nữa, xứng đáng với công lao và sự hy sinh cao cả của cha anh. Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Xem thêm Top 20 bài phân tích 9 câu thơ đầu bài Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 10 bài phân tích bài Đất Nước đoạn 1 Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 5 bài phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 2 Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 5 bài phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 2 bài phân tích đoạn cuối Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất Top 10 bài phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân chi tiết nhất Số 2 Phân tích đoạn 3 Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm Đất Nước được tạo nên bởi linh hồn, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén mà cũng đằm thắm trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Đất Nước do ai làm nên? “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu ….Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cái nhìn rất mới mẻ, độc đáo của nhà thơ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của đất nước dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khao khát khám phá kiếm tìm. Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp bát ngát, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng. Song, đến Nguyễn Khoa Điềm thì nhà thơ không nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích. Đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm tinh thần thượng võ của dân tộc. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do ai làm nên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ thể hiện cái nhìn mới mẻ mà còn thể hiện cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông không phải là sự tạo tác của thiên nhiên mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi cá nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ao ước một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gợi ra cảnh ly tán. Sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh mà còn ca ngợi tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của nhà thơ đã trở thành biểu tượng sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu đôi lứa. Những quả đồi thấp bao quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục. Đoạn thơ bắt đầu từ những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền thế giới ấy nhờ cái nhìn mới mẻ độc đáo của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông không còn là cảnh sắc thiên nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử không chỉ đơn thuần mang tính chất thiêng liêng. “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời gian lịch sử, vừa gợi được không gian mênh mông. Dường như để từ đó nhà thơ muốn khẳng định, lặng lẽ bền bỉ cùng thời gian, trung hậu kiên cường trong không gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân. Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế hệ. Số 3 Phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn KHoa Điềm là một trong những tác giả tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Mỹ. Nổi bật nhất trong đời thơ ông không thể không kể đến bài Đất nước. Đọc đoạn thơ thứ ba của bài, ta có thêm những hiểu biết, những nhìn nhận về vai trò, trách nhiệm của nhân dân với Đất nước Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước …… Làm nên Đất Nước muôn đời. Đất nước là bài thơ được trích từ trường ca Mặt đường khát vọng. Tác phẩm thuộc chương V của bản trường ca và được sáng tác ở chiến khu Trị Thiên năm 1971- trong những ngày kháng chiến chống Mỹ sục sôi khắp cả nước. Đặc biệt, bài thơ như một lời thức tỉnh gửi đến tuổi trẻ đô thị miền Nam hãy đứng lên thực hiện sứ mệnh của thế hệ mình với tổ quốc, với nhân dân. Nếu ở hai khổ trước, NGuyễn KHoa Điềm đưa bạn đọc đến miền không gian của những tình cảm thân thương gắn kết. Và ở đó, ta được hiểu rõ về cội nguồn của đất nước, về lời giải thích Đất Nước là gì. Thì ở khổ tiếp theo, nhà thơ đã cho bạn đọc cái nhìn toàn cảnh về trách nhiệm của mỗi người với Đất Nước. Đất Nước hiện lên vô cùng gần gũi và thân thuộc. Đất Nước kết tinh và hội tụ vẻ đẹp trogn mỗi con người. Lời khẳng định của nhà thơ Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước giúp ta thêm thấm thía và hiểu rõ được sự gắn bó của Đất Nước bao la rộng lớn với mỗi con người cụ thể. Nó thể hiện rõ nét và tồn tại trong từng nếp sống, qua từng cử chỉ dẫu nhỏ bé nhưng tràn ngập tình cảm “Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm. Cử chỉ đó là sự tiếp nối của ý thơ “Đất Nước là nơi ta hò hẹn” trong những vần thơ đầu. Quả thực, cơ sở tình yêu lứa đôi trong mỗi con người đều được xây dựng và phát triển từ tình yêu Đất Nước hài hòa, lớn lao. Và mỗi người đều phải có trách nhiệm xây dựng một tổ ấm để góp phần xây dựng “Đất Nước hài hòa nồng thắm” trong mỗi người. Và sự hài hòa, nồng thắm, sự gắn kết ấy còn là trách nhiệm nối kết, gắn bó cộng đồng. Tất cả đều nhằm để xây dựng khối đại đoàn kết cộng đồng vững mạnh để tạo nên “đất nước vẹn tròn to lớn” . Không chỉ vậy, hình ảnh thơ “cầm tay mọi người” còn gợi nhắc về nguồn gốc tổ tiên và tinh thần đoàn kết cộng đồng giữa người dân cùng chung một gốc gác con Rồng cháu Tiên. Để rồi tình yêu ấy được truyền nối và hi vọng “Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng” Đó là tương lai tươi sáng của Đất Nước. Sự phát triển của Đất Nước phát triển với hi vọng, tách nhiệm với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lao cả về trí tuệ lẫn tầm vóc. Đó là sức mạnh lớn lao grogn mỗi người dân đất Việt trong tương lai tươi sáng để dựng xây Đất Nước. “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…” Lời thơ chính là lời tâm tình của người anh với người em, của chàng trai đối với một người con gái. Cách tâm sự tỉ tê sao mà tình cảm, sao mà gần gũi thân thương. Đất Nước là một khái niệm trừu tượng nhưng khi đặt nó trong so sánh “máu xương của mình” thì Đất Nước lại hiện hữu cụ thể trong sự hi sinh, cố gắng của mỗi người. Đây chính là sự nối tiếp trogn ý thơ đầu“trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất Nước”. Đất nước gắn kết vô cùng với con người. Điệp từ “phải biết” như sự thể hiện của một mệnh lệnh, trách nhiệm của mỗi người. Và mỗi người dân đều có trách nhiệm với quê hương, đất nước. Mỗi con người cần phải biết “gắn bó san sẻ”và là luôn phải “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”. Con người, mỗi con người VIệt Nam đều mang trách nhiệm đối với đất nước. Đất Nước được làm nên từ những con người với tình yêu nồng nàn với dân tộc. Với hình ảnh thơ giản dị, hình ảnh so sánh ta được cảm nhận được trách nhiệm và vai trò của nhân dân với Đất Nước. Trách nhiệm của mỗi người, nhất là thế hệ người trẻ đều cần phải phát huy khả năng của mình để dựng xây, gìn giữ quê hương. Đất Nước trong mỗi người là Đât Nước của yêu thương và sứ mệnh. Và mỗi người đều cần làm tròn nhiệm vụ của mình với quê hương, từ những tình cảm nhỏ bé, tất cả sẽ nâng lên trở thành tình yêu Đất Nước lớn lao và cũng là trách nhiệm trong mỗi người. Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Số 4 Đất Nước phân tích Đoạn 3 Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đích thực tài hoa và sáng tạo. Trên các lĩnh vực văn xuôi, thơ, nhạc, kịch bản văn học, lí luận phê bình,… ông đều có thành tựu đáng tự hào. Thơ Nguyễn Đình Thi có bản sắc riêng, có những tìm tòi về hình ảnh và ngôn ngữ. Thơ ông giàu cảm xúc khi viết về đất nước trong chiến tranh. Bài thơ “Đất nước” trích trong tập thơ “Người chiến sĩ“, nó được thai nghén và hình thành trong một thời gian khá dài từ năm 1948 – 1955. Từ thực tiễn lịch sử và sự sống còn của dân tộc, nhà thơ suy ngẫm về đất nước. Đây là một trong những bài thơ hay nhất viết về cảm hứng quê hương đất nước của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Biểu lộ niềm vui phơi phới của người chiến sĩ cầm súng đánh giặc bảo vệ quê hương, thể hiện tình yêu và lòng tự hào về đất nước với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và truyền thống anh hùng của dân tộc, Nguyễn Đình Thi đã viết “Mùa thu nay khác rồi … Những buổi ngày xưa vọng nói về”. Cảm hứng yêu nước, tự hào dâng lên dào dạt trong tâm hồn nhà thơ, trong tâm hồn những người chiến sĩ “đã đứng lên thành những anh hùng. Người chiến sĩ đã ra đi từ mùa thu ấy, khi “cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng” Chính Hữu, giã từ phố cũ thân yêu, dấn thân vào lửa máu. Đối lập với “những ngày thu đã xa” đẹp mà buồn, là “Mùa thu nay khác rồi”. Nhà thơ reo lên sung sướng tự hào, một niềm vui phơi phới dâng trào. Đứng giữa núi đồi chiến khu, say mê ngắm đất trời. Thiên nhiên bao la tươi đẹp như xôn xao niềm vui với con người. Bốn chữ “tôi đứng vui nghe” thể hiện một tư thế, một dáng đứng kiêu hãnh tuyệt vời. Con người chan hòa cùng cây cỏ và say đắm trong màu sắc quê hương. Ngọn gió mát lành màu thu “quyện hương cốm mới” như hát cùng đất nước. Hình ảnh “rừng tre phấp phới” diễn tả thật hay sức sống mãnh liệt của đất trời quê hương “Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới…”. Mùa thu lại về với đất nước và con người trong sắc màu tươi sáng “Mùa thu thay áo mới – Trong biếc nói cười thiết tha“. Bao trùm đất nước là cả một không gian bao la, một thiên nhiên đẹp hữu tình được nhân hóa, gắn bó hòa hợp với con người. Con người kháng chiến với khát vọng tự do, nên tầm nhìn cũng cao xa, mênh mông. Có lẽ vì thế nhà thơ đặc biệt chú ý đến bầu trời. Năm lần nhà thơ nói đến bầu trời, mỗi lần có một cách nói, cách cảm nhận đầy khám phá “Trời thu thay áo mới”, “Trời xanh đây là của chúng ta”. “Trời đây chim và đất đầy hoa”. “Dây thép gai đâm nát trời chiều”. “Trán cháy rực nghĩ trời đất mới”. Cái khác của mùa thu nay được diễn tả qua vần điệu náo nức, xôn xao, được đặc tả qua hình ảnh sống động, tươi mát Gió thổi rừng tre phấp phới”, được thể hiện ở ánh mắt, nụ cười “Trong biếc nói cười thiết tha”. “Biếc” ở trời xanh, “biếc” ở con mắt những chàng trai, cô gái đang say mê ngắm trời thu thời máu lửa. Nguyên nhân của niềm vui ấy thật sâu xa, rộng lớn. Cách mạng thành công, nhân dân đã và đang đem tài năng và xương máu để giữ gìn và xây dựng đất nước. Đất nước là của nhân dân. Nguyễn Đình Thi như reo lên, hát lên niềm hạnh phúc tột cùng của những con người đang làm chủ đất nước “Trời xanh đây là của chúng ta, Núi rừng đây là của chúng ta, Những cánh đồng thơm mát, Những ngả đường bát ngát, Những dòng sông đỏ nặng phù sa”. Một lối nói khẳng định “của chúng ta” vang lên đĩnh đạc, tự hào. Một dân tộc đã gan góc đứng lên đánh Pháp mới có tiếng nói hào hùng ấy. Tất cả những gì cao quý, thiêng liêng trên đất nước thân yêu này là “của chúng ta”, của nhân dân chúng ta. Sau những đêm dài nô lệ, nhà nước độc lập, nhân dân ta mới có niềm vui tự hào mênh mông ấy. Khát vọng làm chủ đất nước với tất cả niềm tự hào mênh mông ấy. Khát vọng làm chủ đất nước với tất cả niềm tự hào là của bao thế hệ con người Việt Nam trong suốt bốn nghìn năm lịch sử “Của ta, trời đất, đêm ngày – Núi kia đồi nọ sông này của ta” “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” – Tố Hữu. Với nghệ thuật diễn tả trùng điệp, với cách liệt kê, sử dụng điệp từ, điệp ngữ của chúng ta,… đây là… những tác giả đã tạo nên giọng thơ lôi cuốn, hấp dẫn mang âm điệu anh hùng ca. Dáng hình đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi hiện lên sống động qua những vần thơ tráng lệ. Nhà thơ như đang ngước mắt chỉ tay về “trời xanh” và “núi rừng”, … mà reo lên sung sướng. Có tình yêu nào lớn hơn tình yêu đất nước? Đất nước bao la, hùng vĩ với trời cao, biển rộng sông dài, … trở nên thân thiết, thiêng liêng. Đất nước với những cánh đồng quê mênh mông thẳng cánh cò bay, ” thơm mát” hương lúa bốn mùa. Đất nước với những nẻo đường tự do, những dặm đường kháng chiến ” bát ngát” đến mọi chân trời. Đất nước với những dòng sông – sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Mã, Cửu Long Giang, … “đỏ nặng phù sa”, bồi đắp nên những cánh đồng màu mỡ, nuôi sống nhân dân ta tự bao đời nay. Các tính từ “Xanh”, “thơm mát”, “bát ngát”, “đỏ nặng”, … cực tả vẻ đẹp và sự bền vững đất nước, đồng thời cho thấy ngòi bút thơ tài hoa, điêu luyện của Nguyễn Đình Thi trong lựa chọn ngôn từ để hình tượng hóa vần thơ, tạo nên sắc điệu trữ tình đằm thắm. “Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi” Tố Hữu. Cảm xúc dạt dào ấy về đất nước cứ ngâm nga mãi trong lòng chúng ta khi tiếp cận và cảm thụ những vần thơ của tác giả “Người chiến sĩ” nói về dáng hình đất nước. So với lớp nhà thơ đương thời, Nguyễn Đình Thi là nhà thơ có cái nhìn mới mẻ, sâu sắc về đất nước. Cảm hứng lịch sử và truyền thống được kết hợp nhuần nhuyễn với cảm hứng thời đại. Có khí quật cường của tổ tiên từ nghìn xưa đem đến cho nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh một sức mạnh vô biên mà không một thế lực thù địch bạo tàn nào có thể khuất phục được “Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất, Những buổi ngày xưa vọng nói về”. Ba chữ “nước chúng ta” là sự khẳng định ý chí tự cường, niềm tự tôn dân tộc. Đất nước và dân tộc với lưỡi cày, thanh gươm và chiếc gộc tre “chưa bao giờ chịu khuất”. “Những buổi ngày xưa” mà nhà thơ nhắc đến là những năm tháng đau thương và vinh quang của giống nòi. Quên sao được ngày Bà Trưng, Bà Triệu xuất quân, khi Lý Thường Kiệt viết ” Nam quốc sơn hà” trên chiến tuyến sông Cầu – Như Nguyệt, khi Trần Quốc Tuấn bắt Ô Mã Nhi trên sông Bạch Đằng Giang, khi Liễu Thăng bị quân ta chém đầu tại Chi Lăng, khi Tôn Sĩ Nghị quăng cả ấn tín, triều phục chạy tháo thân qua biên giới, … Nhân dân mãi tự hào về “những buổi ngày xưa” ấy “Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn. Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc, Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng”. Hai chữ “đêm đêm” nói lên tính liên tục dòng chảy lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc. Từ láy “rì rầm” như một nốt nhạc trầm hùng vang xa trong bài ca Tổ quốc, nó gợi tả cái mạch ngầm của giang sơn, giống nòi, đó là truyền thống anh hùng bất khuất chốn xâm lăng. Biên độ câu thơ mở, khép tài tình, lúc rút ngắn lại 3 từ, lúc duỗi dài ra 8 từ, các câu lục ngôn, thất ngôn, đan chéo vào nhau, cài chặt vào nhau làm nên tính nhạc phong phú. Cảm xúc dào dạt, âm hưởng hào hùng, ngôn ngữ đẹp và tinh tế. Song song với chuỗi hình ảnh về dáng hình đất nước là sự phát triển của chuỗi liên tưởng về quá khứ hào hùng, về sức mạnh Việt Nam. Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho vẻ đẹp và cốt cách thơ Nguyễn Đình Thi. Một hồn thơ tài hoa, bay bổng. Một tình yêu nước sâu nặng và thiết tha. Một đất nước đẹp tươi, hùng vĩ, giàu tiềm năng và tiềm lực, một dân tộc anh hùng được nhà thơ nói đến và ca ngợi. Chiều dài của lịch sử, tầm cao của dân tộc, thế đứng bất khuất của con người Việt Nam là những điều tốt đẹp nhất được thể hiện qua đoạn thơ này mà ta cảm nhận được một cách sâu sắc. “Đất nước”, bài thơ làm rung động tâm hồn chúng ta…, như “lắng hồn núi sông ngàn năm…”. Số 5 Phân tích bài Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa Điềm Nền văn học Việt Nam giai đoạn năm 1945-1975 là nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, bên cạnh các đề tài “lực lượng vũ trang- chiến tranh cách mạng” thì các đề tài xây dựng đất nước, hoặc ca ngợi đất nước cũng được nhiều tác giả chọn đưa vào tác phẩm của mình mới những vần thơ, lời văn chân thành tha thiết, thấm đẫm hào khí dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng chọn cho mình đề tài đất nước, giữa những năm tháng cuộc chiến đấu của nhân dân đang vào lúc cao trào sục sôi máu lửa. Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đặt nặng trong tác phẩm của mình màu sắc tuyên truyền, không ồn ào, rộn rã mà ông cho riêng cho mình một chất giọng êm dịu, thiết tha, gần gũi và thân thuộc. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước bằng một cách rất riêng, bằng một cảm xúc mới lạ giữa thời chinh chiến “hoa lửa”, ông nhìn nhận Tổ quốc từ những điều giản dị, từ những con người rất đỗi bình thường. Sử dụng thành công giọng thơ mang tính triết luận trữ tình, đặc biệt là sự kết hợp với các chất liệu văn hóa dân gian lấy từ vốn hiểu biết rộng lớn của nhà thơ về văn hóa ngàn đời của dân tộc. Tất cả đã tạo nên một Đất Nước với vẻ giản dị, thân thương, Đất Nước của nhân dân, một Đất Nước bước ra từ những câu chuyện kể, những truyền thuyết, những phong tục tập quán của 4000 năm văn hiến tự hào. “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó…” Trong trích đoạn Đất Nước, đầu tiên tác giả đi vào phân tích và làm rõ vấn đề Đất Nước có từ bao giờ. Trong 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng Đất Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa. Câu “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi cho chúng ta nhớ đến sự tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung. Không chỉ vậy từ hình ảnh miếng trầu bà ăn tác giả còn gợi lại những cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng có có từ thuở vua Hùng dựng nước và giữ nước. Cùng với sự tích Trầu Cau, thì qua câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” tác giả lại tiếp tục gợi nhắc chúng ta nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Như vậy, có thể thấy rằng Đất Nước hình thành từ nền tảng là tình nghĩa sâu nặng của dân tộc, thế nhưng Đất Nước chỉ có thể lớn lên khi nhân dân ta có được tinh thần yêu nước, có được lòng dũng cảm, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Đi từ những câu chuyện cổ tích, những truyền thuyết xa xưa thì tác giả lại tiếp tục chỉ ra Đất Nước có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục. “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa. Mà dù cho đã qua hàng ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, mấy chục năm trời Pháp thuộc, thế nhưng cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm viết Trường ca Mặt đường khát vọng, búi tóc ấy vẫn giữ cho mình dáng vẻ ban đầu không đổi, vẫn kiên cường trụ vững sau gáy của người phụ nữ Việt Nam. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ chồng, càng trong những thử thách, gian lao thì vợ chồng lại càng trở nên thương yêu và gắn kết bền chặt với nhau hơn. Thứ ba nữa, Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường. “Cái kèo cái cột thành tên”, từ chỗ con người ta sống tạm bợ trong những hang đá thô sơ, từ nhân dân ta đã bắt đầu chủ động hơn trong cuộc sống biết xây dựng nên các mái nhà che mưa, che nắng cho mình. Rồi “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần, sàng”, ta cũng thấy được từ cái chỗ nhân dân ta sống phụ thuộc vào thiên nhiên với công việc hái lượm bấp bênh, thì người Việt Nam đã bắt đầu biết đến nền văn minh lúa nước, biết tạo ra hạt thóc hạt gạo làm lương thực chính để phục vụ cuộc sống. Và cuối cùng sau khi dùng ba ý trên để trả lời cho câu hỏi Đất Nước có từ khi nào, tác giả đã chốt lại bằng câu thơ “Đất Nước có từ ngày đó”, “ngày đó” là ngày những truyền thuyết, cổ tích ra đời, là ngày chúng ta có thuần phong mỹ tục, là ngày mà chúng ta biết trồng tre diệt giặc, cũng là ngày bà con người Việt Nam ta biết dựng nhà, trồng lúa. Có thể nói Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lại thông qua các chất liệu văn hóa dân gian lâu đời của dân tộc đã đem đến cho người đọc những xúc cảm gần gũi, thân thuộc và bình dị, để lại trong tâm hồn con người cảm giác tha thiết và gắn bó vô cùng. “Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” Sau câu hỏi Đất Nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khai thác hình tượng Đất Nước ở câu hỏi “Đất Nước là gì?”. Ông không trả lời khái niệm này theo cách của các nhà khoa học mà là dưới cương vị của một nhà thơ, dùng lối chiết tự, tách Đất Nước thành hai thành tố là “Đất” và “Nước” để mà định nghĩa, giúp người đọc có được cách hiểu chính xác nhất, đầy đủ nhất về khái niệm Đất Nước. Về phương diện địa lý Nguyễn Khoa Điềm ví ““Đất là nơi anh đến trường/Nước là nơi em tắm” là không gian gần gũi, thân thuộc đối với mỗi người trong cuộc sống đời thường. Rồi “Đất Nước là nơi ta hò hẹn/Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, tác giả đã hợp hai thành tố lại thành “Đất Nước” theo thời gian anh và em lớn dần lên, nếu trước đây anh và em là hai cá thể và Đất Nước cũng tách riêng ra thì bây giờ anh và em đã hợp lại thành một cặp tình nhân “hò hẹn” và Đất Nước trở thành một cái không gian riêng tư, thầm kín cho tình yêu của lứa đôi. Không chỉ thế “Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc…Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” lại cho ta thấy Đất Nước ở một dáng vẻ khác, nếu ở trên ta thấy một Đất Nước nhỏ bé dung dị thì tới những câu thơ này ta lại thấy Đất Nước mang một dáng vẻ kỳ vĩ và lớn lao được đo bằng sải cánh của con chim phượng hoàng bay về núi bạc, được đo bằng sự mênh mông, rộng lớn của biển khơi. Và cuối cùng dù đi đâu về đâu thì phượng hoàng cũng phải về núi, cá ngư ông thì phải vùng vẫy ở biển và dân tộc Việt Nam thì phải đoàn tụ ở nơi có tên là Đất Nước. Như vậy có thể tóm gọn lại Đất Nước chính là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. “Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” Về phương diện thời gian lịch sử, tác giả đã trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì bằng một cái nhìn bao quát suốt chiều dài thời gian lịch sử để đưa ra một câu trả lời chính xác nhất. Trong quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi nhắc về truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông, mở ra triều đại đầu tiên của nước ta, triều đại vua Hùng tục truyền kéo dài đến 18 đời. Kèm với đó là những lời dặn dò chân thành tha thiết, phải biết kế tục hương hỏa, duy trì nòi giống dân tộc, phải đứng lên mạnh giữ gìn non sông gấm vóc, và luôn nhớ về nguồn cội của mình với tấm lòng thành kính, trân trọng. “Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất nước vẹn tròn, to lớn” Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống. “Khi hai đứa cầm tay/Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm” là sự tiếp nối của ý thơ “Đất Nước là nơi ta hò hẹn”, thì đến đây trên cơ sở tình yêu lứa đôi mỗi con người phải có trách nhiệm xây dựng một tổ ấm để góp phần xây dựng một “Đất Nước hài hòa nồng thắm”. Không chỉ dừng lại ở đó, trách nhiệm của mỗi con người còn là “cầm tay mọi người”, phải nối vòng tay lớn, xây dựng khối đại đoàn kết cộng đồng vững mạnh để tạo nên một “đất nước vẹn trong to lớn” để sánh vai với các cường quốc năm châu. Không chỉ vậy hình ảnh thơ “cầm tay mọi người” còn gợi nhắc về nguồn gốc tổ tiên, nhắc nhở chúng đều cùng một mẹ sinh ra, thế nên phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau. “Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng” Trong tương lai đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc cả Đất Nước. Con sẽ đưa Đất Nước đi xa, sánh vai cùng với các cường quốc trên thế giới, đưa Đất Nước trở nên giàu đẹp vững mạnh gấp nhiều lần hôm nay. Sau khi đã định nghĩa một cách rõ ràng Đất Nước cả về không gian và thời gian, cả về địa lý lẫn lịch sử thì Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại bằng những câu thơ rất tha thiết về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước. “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…” Lời thơ như là lời tâm tình của người anh với người em, lời tâm tình của chàng trai đối với một người con gái, cũng là lời lay tỉnh của nhà thơ, của thế hệ trước với thế hệ sau, cũng là lời lay tỉnh của cách mạng đối với tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam, những con người đang ngủ quên trong cuộc sống hưởng thụ . Đất Nước là một khái niệm trừu tượng, thế nhưng khi so sánh Đất Nước với hình ảnh “máu xương của mình” thì đó lại là một khái niệm cụ thể, hữu hình. Đây cũng là phần nối tiếp trong ý thơ “trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất Nước”, thì ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ rõ Đất Nước là máu xương của mỗi con người, đã là phần căn cơ cốt yếu trong mỗi cá nhân, ai cũng phải có. Điệp từ “phải biết” trong hai câu thơ sau là biểu hiện của một mệnh lệnh, xác định trách nhiệm cho mỗi người, yêu nước không phải là một khái niệm chung chung, một tư tưởng trừu tượng mà yêu nước phải thực hiện bằng hành động. Mỗi con người cần phải biết “gắn bó san sẻ”, đặc biệt phải “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”, dâng cả sự sống, thanh xuân cho Đất Nước, coi trọng Đất Nước hơn cả hạnh phúc riêng của bản thân mình. Bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Tổng kết Trên đây là tổng hợp đầy đủ Top 5 bài phân tích Đất Nước đoạn 3 Nguyễn Khoa Điềm chi tiết nhất đến các bạn học sinh chuẩn bị cho các kì thi. Top 10 Tìm Kiếm hy vọng đã mang đến bài viết bổ ích, giúp cũng cố kiến thức cho các bạn học sinh lớp 12.
phân tích đất nước đoạn 3